Tuesday, June 9, 2015
Chương 1 - Các nguyên nhân đưa đến chiến tranh Việt Nam
Các nguyên nhân đưa đến chiến tranh Việt Nam
uộc chiến tranh Việt Nam hiện nay là một cuộc chiến tranh vô cùng tàn
khốc, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân gần và
nguyên nhân xa.
Nguyên nhân gần là sự tranh cướp quyền hành cai trị giữa các phe phái,
vì sự tranh cướp này mà cuộc chiến thay hình đổi dạng, từ chiến tranh
dân tộc, chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng trở thành chiến
tranh chủ nghĩa, trong đó hai lý tưởng Quốc gia và Cộng sản tiêu biểu
nhất, đối chọi nhau, va chạm nhau, phát sinh ra giết chóc - tàn phá.
Dân tộc Việt Nam trải hàng nghìn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ
giặc Tây, với một thời gian dài bị bọn phong kiến chà đạp bóc lột, nên
ai cũng khao khát Tự Do và Độc Lập,
Mùa thu năm Ất Dậu 1945, lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở, cuộc Đệ Nhị
Thế Chiến làm cho các nước thực dân tư bản châu Âu kiệt quệ, phong trào
giải phóng bùng nổ rầm rộ khắp năm châu, dân tộc Việt Nam cũng vươn
mình lên, đấu tranh cướp chính quyền, đánh đuổi phát xít xâm lược, đạp
đổ chế độ quân chủ chuyên chế.
Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền mùa Thu năm 1945 là công lao của toàn
dân, do lòng yêu nước và sục sôi căm thù thực dân - phát xít thúc đẩy;
nhưng ngay lúc đầu, nó đã nảy sinh ra mầm mống tranh cướp và đi đến chỗ
đấu tranh cục bộ.
Vừa cướp được chính quyền, thực lực chưa có gì, ngân khố thì trống
rỗng, lại trông thấy bao nhiêu khó khăn bày ra trước mắt mà mầm mống
tranh cướp cục bộ đã nảy sinh, đủ thấy viễn ảnh chiến tranh không thể
tránh thoát.
Nói về những khó khăn của Việt Nam vào mùa Thu năm 1945 thì thật nhiều, nhưng ở đây chỉ tạm kể mấy khó khăn chính:
KINH TẾ
Một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, người dân Việt Nam đã bị bóc lột đến
cùng cực, chỉ có một thiểu số dựa vào thế lực Tây là giàu, còn đa số
bạch đinh khố rách áo ôm, thuộc loại bần cố nông với hai bàn tay trắng.
Việt Nam là một xứ tài nguyên rất phong phú, cả dưới đất lẫn trên rừng.
Trên rừng đủ thứ gỗ quý như quế, lim, kiền kiền, gõ, trắc, mun v.v… còn
dưới đất thì có mỏ vàng ở Bồng Miêu, mỏ kẽm ở Bắc Bộ, mỏ than ở Hòn
Gai, Nông Sơn v.v… Tất cả những tài nguyên thiên nhiên này đều do thực
dân Pháp độc quyền khai thác, còn người Việt Nam thì làm phu phen, bỏ
xác trên rừng già hay vùi thây dưới hầm mỏ.
Việt Nam cũng là một xứ chuyên sống về nông nghiệp. Ruộng đất ở Bắc
phần và Trung phần chẳng có là bao, nhưng ở Nam phần thì cò bay thẳng
cánh.
Luá gạo sản xuất ở Nam phần Việt Nam nhiều vô kể, đứng hạng nhất nhì
tại châu Á, nhưng số gạo thóc đó không được dùng để nuôi dân nghèo đói
miền Trung hay miền Bắc, mà bi các công ty mễ cốc thực dân Tây xuất cảng
ra nước ngoài mỗi năm hàng triệu tấn.
Nếu quần chúng Việt Nam vốn rộng lượng, tạm chấp nhận phần nào sự bóc
lột của bọn thực dân, thì hẳn không thể tha thứ chánh sách bần cùng hoá
người dân Việt Nam của chúng được. Chính sách đó nằm trong một âm mưu
thâm độc, chẳng những không để dân Việt Nam ngóc đầu lên mà còn đi đến
chỗ kiệt quệ, phải tự ký giấy giao kèo, bán mạng sống mình, mạng sống
gia đình mình cho bọn thực dân chủ hầm mỏ, chủ đồn điền, vừa làm tôi
mọi, trong nước, vừa làm toi mọi ở Tân Đảo Nouvelle Calédonie.
Những năm trước chiến tranh, than đá và cao su là hai nguồn lợi lớn của
bọn tư bản thực dân, sau lúa gạo. Than đá thì khai thác ở Hòn Gai ngoài
Bắc phần, còn cao su thì được trồng tại những vùng đất đỏ thuộc Nam
phần.
Hầm mỏ là nơi chôn vui thân xác người dân nghèo đói vô tội Việt Nam đã
đành, nhưng các đồn điền cao su cũng là chỗ đầy ải chết chóc không kém.
Người dân Việt Nam nào vô phúc, đã ký giao kèo đi làm phu đồn điền hay
phu khai thác hầm mỏ cho tư nhân thực dân thì kể như chết cả đời mình,
tuyệt tự cả giòng giống.
Trước đây, hồi còn thực dân cai trị, trong nhiều bài báo, nhiều cuốn
sách nói về chính sách hà khắc ở Đông Dương, chính những người Pháp cấp
tiến đã tố cáo tội ác của những tên chủ hầm mỏ, chủ đồn điền, bảo rằng
mỗi gốc cây cao su trồng ở Nam phần Việt Nam, sỡ dĩ tươi tốt, sản xuất
nhiều mủ là nhờ bón bằng thây người Việt Nam!
Tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương thật là tầy đình, thật là kinh
khủng, không bút nào tả xiết. Tội ác đó càng chồng chất hơn vào những
năm cuối cùng từ 1940 đến 1945, và sau đó là trong cuộc chiến tranh Việt
- Pháp 1945-1954.
Năm 1940, Pháp bị Quốc xã Đức đánh bại nên thế lực của thực dân ở các
xứ thuộc địa cũng yếu hẳn đi. Lợi dụng cơ hội, quân đội Nhật Bản ùn ùn
kéo vào Đông Dương, lấy cớ mượn đường hoả xa Hà Nội - Vân Nam để đánh
bọc hậu Tưởng Giới Thạch, nhưng kỳ tình nhằm hất cẳng Pháp, chiếm lấy
quyền cai trị.
Thời kỳ này, dân Việt Nam bị một cổ đôi tròng, vừa phải cung phụng thực dân Pháp, vừa phải chu cấp cho quân đội phát xít Nhật.
Phát xít Nhật tuy cũng giòng giống da vàng, nhưng chính sách cai trị có phần hà khắc hơn thực dân Pháp nhiều.
Trước hết, chúng vơ vét hết vàng bạc của thực dân Pháp sau bao nhiêu
năm tích luỹ, khiến đồng bạc do Banque de L’ Indochine phát hành trước
kia mất rất nhiều giá trị, và được thay thế vào đó bằng một thứ giấy bạc
mới chẳng có gì bảo đảm mà người đương thời quen gọi là “Đồng bạc
Nhật”.
Kế đến, quân đội Nhật, qua tay thực dân Pháp, bắt nhân dân Việt Nam
đóng thêm thuế, làm thêm sâu, lên tận vùng cao nguyên Ban Mê Thuột hay
miền thượng du Bắc Phần đắp đường, đào hầm, xây cất đồn lũy.
Cay nghiệt hơn, vì nhu cầu chiến tranh, quân đội Nhật còn bắt buộc
người dân Việt Nam phải dành phần lớn diện tích ruộng đất để trồng cây
đay, chứ không được trồng lúa, khoai, ngô, đậu.
Có nhiều địa phương, chính giữa lúc lúa khoai ngô đậu vừa mới trồng,
đang bắt đầu tốt lên, xanh tươi hứa hẹn thì được lệnh phải nhổ sạch để
trồng cây đay thay vào, khiến người dân Việt Nam, từ ông già bà lão đến
trẻ con, một tay nhổ khoai, nhổ ngô, một tay gạt nước mắt, vì trông thấy
ông thần đói đe doạ ngay trước mặt.
Nên biết rằng công việc trồng cay đay khổ nhọc gấp bội công việc trồng
ngũ cốc. Từ lúc gieo hạt cho tới khi chặt được phải mất gần 6 tháng.
Chặt xong, phải ngâm cay đay xuống sông, xuống hồ hay xuống ao chừng vài
chục ngày cho tróc vỏ rồi vớt lên, bóc ra, phơi khô, đập dập thành sợi,
xong bó lại, đem lên quận, lên huyện nộp cho chính quyền.
Vi sông ngòi, ao lạch bị dùng làm chỗ ngâm đay nên đâm ra nạn thiếu
nước sạch để tắm giặt, và nạn khan hiếm tôm cã cũng xuất hiện, bởi chẳng
có một sinh vật nào có thể sống nổi dưới làn nước đã bị ngâm cay đay.
Phần lớn diện tích đất đai đã bị bắt buộc phải dành đề trồng cay đay,
chính quyền thực dân Pháp, vì sự ép buộc của quân đội Nhật, lại bắt nhân
dân Việt Nam trồng thêm thuốc lá, nên xảy ra nạn đói trầm trong năm Ất
Dậu 1945.
Nạn đói này hoành hành dữ dội, chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà,
chỉ mấy tháng trời, giết hại khoảng hai triệu người từ Trung ra Bắc.
Nhắc lại nạn đói năm Ất Dậu 1945, những người Việt Nam bị chứng kiến
hẳn không khỏi rùng mình. Đói đâu mà đói ghê gớm, đói đến nỗi có những
trường hợp phải ăn cả thịt người, thật là một chuyện ít ai ngờ, tưởng
chỉ xảy ra trong rừng già Phi Châu, nơi có lắm bộ lạc man rợ.
Vì bị bóc lột, bị bần cùng hoá, bị chết đói, chết khát như thế nên mùa
thu 1945, khi quần chúng Việt Nam nổi lên cướp chính quyền thì chỉ còn
da bọc xương, trơ hai bàn tay trắng.
Quần chúng từ hai bàn tay trắng, tiền trong ngân khố quốc gia chỉ còn
lại còn lại 1.230.720 đồng, nhưng có tới 586 ngàn đồng bạc rách, không
lưu hành được, Chính phủ lâm thời vừa mới thành lập còn phải cung phụng
nuôi dưỡng hơn 200 ngàn quân Trung Hoa Quốc Gia do tướng Lư Hán chỉ huy,
vừa mới tràn vào Bắc Việt ngày 28-8-1945 theo Hiệp ước Postdam để giải
giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở ra, nên “tang gia” vô cùng bối
rối.
Quân đội của tướng Lư Hán quả thật là một gánh nặng về mọi mặt đối với
chính phủ lâm thời Việt Nam hồi bấy giờ. Một đằng, họ buộc Việt Minh
phải đổi cho họ hàng tháng một số tiền lớn bạc Đông Dương để quân lính
họ chi dùng. Đằng khác, họ tự ý đưa bạc Quan, Kim, Quốc tệ vào, làm xáo
trộn nền tài chính Việt Nam. Hai thứ bạc này chẳng có chút giá trị nào
trên thị trường quốc tế, nó không khác gì mớ giấy lộn, nhưng người dân
Việt Nam vẫn phải bắt buộc tiêu dùng, và sau này, khi quân đội của tướng
Lư Hán rút về rồi, nếu có ai còn lưu giữ ít nhiều thì chỉ biết đem ra
đốt.
Đạo quân của tướng Lư Hán, trên danh nghĩa là giải giới quân đội phát
xít Nhật, những trên thực tế, hình như họ còn được trao phó nhiệm vụ
tiếp xúc, nâng đỡ các phần tử quốc gia - đặc biệt Quốc Dân Đảng Việt Nam
- để ngăn cản sự bành trướng của Đảng Cộng sản.
Lúc này, bên Trung Hoa lục địa, cuộc kháng chiến chống Nhật vừa kết
thúc thì mầm nội chiến đã phát sinh, hai bên Quốc - Cộng đánh nhau kịch
liệt tại vùng Đông Bắc nước Tàu, và ở miền Nam, Hồng quân cũng lập nhiều
chiến khu với ý định đánh úp sau lưng quân đội Tưởng.
Bởi thế, vấn đề ngăn chặn Cộng sản Việt Nam là một điều tối cần thiết
đối với Trung Hoa Quốc gia, vì nếu ở Việt Nam, Cộng sản cướp được chính
quyền thì đương nhiên trở thành một hậu cứ vững chắc của Hồng Quân Trung
cộng.
Thực lực quân sự của quân đội Lư Hán không đủ làm Việt Minh sợ, vì đội
quân này ô hợp, bạc nhược. Điều mà Việt Minh sợ là có nhiều phần tử quốc
gia chống cộng đã dựa vào sự biến diễn của đạo quân này để hoạt động
ngấm ngầm hoặc công khai, giành thế lãnh đạo với Việt Minh.
Những phần tử quốc gia này, có kẻ hoạt động trong nước từ trước tới nay
nhưng cũng có kẻ bấy lâu sống lưu vong bên Trung Hoa, và vừa mới theo
chân đạo quân Lư Hán trở về về nước, trong số có cụ Nguyễn Hải Thần, một
nhà cách mạng lão thành, được Việt Minh mời giữ chức Phó Chủ Tịch nhà
nước.
Để vô hiệu hoá mọi hoạt động chống Cộng của phe quốc gia, và để có thể
tiêu diệt các phần tử này, Việt Minh bắt buộc phải đút lót - hối lộ đạo
quân của của tướng Lư Hán; hủ hoá thành phần lãnh đạo chỉ huy chính trị
và quan sự của đạo quân này, dồn họ vào thế “ăn của chùa ngọng miệng”,
không còn thực thi nhiệm vụ ngấm ngầm giúp đỡ Quốc dân đảng Việt Nam
nữa,
Ngoài việc cung phụng đạo quân Lư Hán, Việt Minh còn phải bắt tay ngay
vào công việc tổ chức chính quyền và phát triển cơ sở Đảng cộng sản trên
khắp toàn quốc.
Công việc trước mắt thì nhiều, mà tiền trong ngân khố lại chẳng có;
Việt Minh cũng chẳng hy vọng gì vào sự viện trợ kinh tế của Hồng quân
Trung Hoa và Nga sô hay bất cứ quốc gia nào, vì chủ lực của Trung Cộng
thì ở miền Bắc nước Tàu, rất xa xôi cách trở với Việt Nam, họ lại đang
phải dồn hết trí lực vào công cuộc đánh nhau với Trung Hoa Quốc Gia để
chiếm chính quyền ở Hoa Lục, nên không thể cứu viện cho Việt Minh.
Còn Nga sô, tuy là nước thắng trận trong Đệ nhị thế chiến, nhưng cũng
bị thiệt hại khá nhiều, và đang trong thời kỳ ráo riết tranh dành ảnh
hưởng với Hoa Kỳ ở Đông Âu cũng như ở vùng Đông Bắc nước Tàu nên chưa
thể viện trợ giúp Việt Minh.
Trong khi đó, những khó khăn nội bộ chưa giải quyết được gì, và Việt
Minh đang rất cần tiền thì quân đội Pháp lại theo gót quân đội Anh đổ bộ
vào Sài gòn rồi kéo thốc xuống miền Lục tỉnh, gây chiến tranh.
Việc quân đội Pháp bất thần trở lại Đông Dương, đặt thêm cho Việt Minh
một khó khăn mới hết sức to lớn, nhất là về mặt kinh tế - tài chính, vì
muốn đánh lại đạo quân này thì cần phải có nhiều súng ống, đạn dược, mà
muốn mua súng ống đạn dược từ nước người thì phải có ngoại tệ.
Để giải quyết được phần nào hay phần ấy những khó khăn kinh tế trong
lúc đầu, Việt Minh phải dùng đủ mọi hình thức hầu thu góp tiền bạc, của
cải trong nhân dân. Một trong các hình thức thường được Việt Minh phát
động lúc bấy giờ là tổ chức lạc quyên, bán đấu giá ảnh Hồ Chí Minh theo
lối Mỹ (ai trả giá nào là phải xỉa tiền ngay giá ấy);đặt hủ “ gạo cứu
quốc’ tại mỗi gia đình, gia đình nào cũng thế, ngày 3 bữa ăn, phải bốc 3
nắm gạo bỏ vào hũ, cuối tháng có cán bộ xã ấp đi đổ những hũ đó, gom
góp gạo lại một hũ rồi chở đi. Ngoài ra, Việt Minh còn tổ chức “Tuần lễ
vàng”, khuyến khích mọi người giàu có hãy dùng vàng vào công cuộc cứu
quốc, với các khẩu hiệu như: “Đeo chi nặng cổ nặng tay, hãy đem giúp
nước hỡi ai có vàng!”
Kết quả một tuần lễ lạc quyên rất khả quan, Việt Minh thu được lối trên
hai chục triệu bạc Đông Dương và khoảng hơn bốn trăm ki lô vàng.
Hai chục triệu bạc Đông Dương và bốn trăm ki lô vàng hồi cuối 1945, giá
trị thật lớn, tuy không thể giúp một tân chính quyền trang trải mọi chi
tiêu cho ngân sách quốc gia, nhưng ít ra nó cũng giúp cấp thời giải
quyết một số khó khăn. Đặc biệt bạc Đông Dương thì dùng để đổi cho quân
đội của tướng Lư Hán; còn vàng thì một phần đút lót hối lộ cho tướng tá
Trung Hoa, và phần còn lại, thay ngoại tệ mua khí giới.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment